GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

LONG ĐIỀN - BÀ RỊA VŨNG TÀU

Cập nhật lúc 04:59:42 08-03-2017 (GMT+7) Lượt xem:4533

Nghĩa Lý Tụng Niệm (P.2)

Cộng lực của nhiều người cùng tụng được hội tụ với mình vào một điểm ý nguyện tạo thành một năng lực có sức mạnh phi phàm lập tức chuyển đến chư Phật trong mười phương không có gì cản trở nỗi...

>>Nghĩa Lý Tụng Niệm (P.1)

III. Phương pháp hành trì


Đúng ra tụng kinh, trì kinh hay trì chú đều là phương pháp tu tập cả và bất cứ phương pháp nào cũng cần đến ba năng lực trợ đạo để đạt được tâm nguyện của minh. Như trên đã nói, người hành trì kinh với mục đích: “khai thông trí tuệ tâm mình mở rộng như biến cả để chuyển hoá phiền não nơi tự tâm, nhờ năng lực trí tuệ này chuyển đạt tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương và khiến tâm mình thể nhập tâm chư Phật trong thế giới chân như.” Muốn đạt được tâm nguyện này, người tu tập phải thực hiện hai phương pháp sau đây:


A. Phát huy ba năng lực trợ đạo

Người tụng kinh, trì kinh hay trì chú phải triệt để phát huy cho được ba năng lực trợ đạo sau đây thì sự tu tập mới hy vọng sớm đạt được viên thành sở nguyện. Công dụng của ba năng lực trợ đạo được giải thích như dưới đây:


1. Ngôn lực: là năng lực của tiếng nói


Ngôn lực là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc chuyển tâm nguyện của mình giảo cảm tâm của chư Phật trong mười phương mà mình nguyện cầu. Theo Phật giáo, tiếng nói của mình thì vô thường vì bản chất của tiếng nói là ba động, tiếng nói ra khỏi miệng vang động được một khoảng không gian gần rồi bị tan biến, nhưng ngôn lực của tiếng nói thì không bị tan biến, vẫn hiện hữu và di động trong không gian chờ gặp được duyên liền phát ra tiếng nói trở lại.


Thí dụ như chúng ta gọi điện thoại viễn liên về bà con mình ở Việt Nam. Tiếng nói của mình ra khỏi miệng liền bị tan biến, nhưng ngôn lực của mình thì không bị tan biến và ngôn lực nói trên được điện lực của điện thoại chuyên chở khởi hành từ Mỹ Quốc chạy về Việt Nam chung vào điện thoại nơi bà con của mình muốn gọi, đồng thời ngôn lực của mình mượn âm thanh nơi điện thoại của bà con phát ra tiếng nói để cho bà con trực tiếp nghe được mình nói chuyện.


Từ đó cho thấy phía sau tiếng nói đều có ngôn lực và tiếng nói thì bị tan biến nhưng ngôn lực thì không bị tan biến và lưu chuyển trong không gian. Cho nên người tụng kinh, trì kinh và trì chú đều cần đến phát huy được ngôn lực của mình để chuyển đạt tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương. Đó là một yếu tố quan trọng trong ba năng lực trợ đạo của người tu tập.


2. Tâm lực: là năng lực của tâm, tức là sự sinh hoạt của tâm, đây thuộc về yếu tố thứ hai của trợ đạo. Năng lực của tâm ở đây là chỉ cho năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người. Năng lực của tâm trong mỗi con người có hai nhiệm vụ:


a, Nhiệm vụ thứ nhất là làm hệ thống chuyển vận nối liền với tâm của chư Phật trong mười phương. Nguyên vì năng lực của tâm tức là chỉ cho năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người và năng lực này được phát sinh từ Tạng Như lai, nhưng Tạng Như Lai lại là nguồn thể phát sinh ra tâm chư Phật. Từ đó cho thấy năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người quan hệ với tâm chư Phật trong mười phương được nối liền qua hệ thống Tạng Như Lai. Hệ thống năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người quan hệ với tâm chư Phật cũng giống như điện thoại của mình ở Mỹ Quốc quan hệ với điện thoại của bà con mình ở Việt Nam qua hệ thống điện lực.


b, Nhiệm vụ thứ hai là khơi nguồn Đạo lực mầu nhiệm của kinh hiện khởi, đồng thời nhờ Đạo lực mầu nhiệm của kinh chuyển đạt tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương mà mình mong cầu. Ngược lại người tụng kinh, trì kinh hay trì chú nếu như không phát huy được năng lực nơi tự tâm, không khơi được nguồn Đạo lực mầu nhiệm nơi kinh là không chuyển đạt được tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương.

Muốn phát huy năng lực của tâm phải nhờ đến ngôn lực làm trợ duyên kích động. Ngôn lực nếu như không kích động trợ duyên thì tâm lực không hiện khởi, cũng như không có gió làm trợ duyên kích động thì sóng biển không thể nổi lên được. Sự phát động của tâm lực đều tùy thuộc vào sự kích động mạnh hay yếu của ngôn lực, ngôn lực kích động yếu thì tâm lực phát động thấp và gần, ngôn lực kích động mạnh thì tâm lực phát động cao và xa.
Ảnh minh họa (sưu tầm)

3. Đạo lực: là năng lực mầu nhiệm của kinh chú, năng lực này diệu dụng bất khả tư nghì đúng như trong Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh, trang 15 có ghi: “Biển Pháp Âm không lường Diệu Lực, Lời nhiệm mầu vô tận khắp vang”. Đạo Lực nói trên có ba diệu dụng bất khả tư nghì:


1, Thứ nhất, trên lộ trình của tự tâm, soi thủng bức màn vô minh đen tối phủ kín trần ai, khai thông sinh lộ hoang vu, dẹp tan gai gốc nghiệp chướng lâu đời, thẳng đến bảo sở của chư Phật trong mười phương;


2, Thứ hai chuyển dẫn ngôn lực của người tu tập hành trì hướng đến giao tiếp với tâm Phật mà người nguyện cầu dâng trọn niềm tin vô biên; hơn nữa tâm người tu tập đã tụng kinh trước khi điều khiển miệng họ phát âm tụng theo. Thí dụ người tụng kinh Bát Nhã nằm lòng, miệng họ vẫn tụng lào lào không lộn một chữ, nhưng lúc đó Ý Thức của họ nhớ tưởng mong lung đủ thứ sự việc đâu đâu không có mặt trong hiện trường; trường hợp đây chính là Tâm của họ tụng kinh Bát Nhã mà Ý Thức của họ không hợp nhất với Tâm tụng theo. Từ đó cho thấy, Ngôn Lực của người Tụng kinh phải nhờ Đạo Lực nơi kinh chuyển lời nguyện cầu của họ thẳng đến Tâm của Phật mà họ nương tựa.


3, Thứ ba chuyển hóa ngôn ngữ của chúng sinh nguyện cầu biến thành Phật ngôn siêu việt ảnh hiện nơi chân tâm thanh tịnh thường trụ bất diệt. Nguyên vì đạo lực không lường của các kinh Chú theo kinh Đại Bảo Tích chính là biển pháp âm mầu nhiệm của chư Phật trong mười phương.


Trên lĩnh vực tha lực, người tụng kinh, trì kinh hay trì chú nếu như không phát khởi được đạo lực của kinh của chú để hành sự như những điều đã trình bày trên thì lời cầu nguyện của họ không ảnh hưởng đến chư Phật, chư Bồ tát, chư hiền thánh Tăng trong mười phương và họ lúc đó chỉ còn lại tự lực mà thôi, nghĩa là họ chỉ nhờ những lời kinh xóa dần những nghiệp chướng oan khiên đã tích lũy từ vô lượng kiếp trong tâm khảm của họ, cũng như trong băng video đã thâu nhạc, giờ đây không thích nữa muốn xóa nó đi bằng cách thâu những lời kinh vào thì những bản nhạc trong băng video nói trên tự nhiên bị xóa hết.


B. Cách thức thực hành


Theo như phương pháp tu tập, người đọc tụng kinh chú đại để có thể phân làm hai hạng: một hạng tụng kinh, một hạng trì kinh.


1. Hạng tụng kinh


Hạng tụng kinh là chỉ cho những người đọc tụng chẩm rải không nhanh, tụng vọng lên xuống theo âm điệu trầm bổng như tiếng nhạc và tụng đều đều từng chữ một theo tiếng mõ trường canh. Hạng tụng kinh theo kiểu này cũng có hai cách: một cách tụng bằng nóc vọng và một cách tụng bằng đan điền.


a, Cánh tụng bằng nóc vọng


Nóc vọng nơi cổ họng là trung tâm phát thanh ngôn ngữ. Người tụng kinh chú nếu như tụng bằng nóc vọng nơi cổ họng thì tiếng kinh chú bị sức hơi của người tụng phát ra ngoài miệng tản mác loảng đi trong không gian giới hạn trở thành những làn sóng âm thanh ba động rồi tan biến dần. Ngôn lực của tiếng tụng kinh chú nói trên không đi thẳng trực tiếp vào trong nội tâm của người tụng mà ngược lại bị sức hơi người tụng đẩy ra theo âm thanh và cùng tan biến theo âm thanh. 

Ngay lúc đó có một phần ngôn lực của tiếng kinh chú lại đi gián tiếp vào trong nội tâm của người tụng qua hai ngưỡng cửa Nhĩ Thức và Ý Thức tiếp nhận thì trở nên quá yếu kém không có sức mạnh trong việc khơi động tâm lực chuyên chở tâm nguyện của họ chuyển đạt lên tâm lực của chư Phật trong mười phương mà họ mong cầu nói chi đến việc khơi động đạo lực của kinh chú để chuyển hóa ngôn lực kinh chú và cầu nguyện tiến thẳng vào tâm lực của chư Phật, nguyên vì năng lực này theo Duy Thức Học là thuộc về Tướng Phần (Images) là phần ngôn lực thứ hai phát ra từ hai màn nhĩ nơi hai lỗ tai của người tụng mà không phải là năng lực gốc của ngôn lực tác động. 

Người thực hành theo cách tụng bằng nóc vọng nói trên chỉ có giá trị trong sự thưởng thức ý nghĩa của kinh văn hơn là tạo dựng năng lực cầu nguyện, cho nên không mang lại được sự lợi ích nào cho họ. Cũng vì năng lực vào nội tâm quá yếu kém, ngôn lực chuyên chở tâm nguyện của họ lại còn gặp phải các năng lực phiền não khác đã nằm sẵn trong nội tâm nổi dậy lấn áp phá sóng khiến cho nó không móc nối được tầng số tâm linh của chư Phật trong mười phương để nguyện cầu. 

Trường hợp đây cũng giống như Đài Phát Thanh phát làn sóng âm thanh quá yếu bị các làn sóng âm thanh khác mạnh hơn lấn áp khiến cho người nghe bắt đài không được rõ. Người tụng kinh theo cung cách này thì không thể nào đạt thành sở nguyện.


Đã vậy ngày nay có những phong trào tụng kinh bằng lối ca hát và người tụng kinh thường chú trọng âm nhạc hơn ý nghĩa và giá trị chiều sâu của kinh tạng. Lối tụng kinh này phần lớn mở rộng trái tim khơi nguồn tình cảm hơn mà không phải mở rộng khối óc khơi nguồn trí tuệ. Tình cảm lên ngôi thì lý trí lùi vào bóng tối và tình cảm chỉ đạo thì “sức môi vẫn thấy đẹp, lợi dụng vẫn thấy trung thành”

Hơn nữa trái tim mở rộng tình cảm tuông chảy thì tất cả tâm lý phiền não thi đua phát triển lôi kéo con người tụng niệm đi lần vào con đường xa đọa. Xưa kia tôi có một người chú trong đạo gọi là Sư thúc, ( tạm dấu tên). Sư thúc người không đẹp, da hơi đen, nhưng người tụng kinh âm thanh rất hay vọng trầm bổng êm đềm như âm nhạc, khiến các cô gái lối xóm trong làng mê say chạy theo và tranh nhau bám lấy Sư thúc, cuối cùng có một cô lôi được Sư thúc ra đời hoàn tục, đấy cũng là do bởi tụng kinh theo giọng ca hát gây nên. 

Bởi thế trong luật đức Phật cấm các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni không được nghe âm nhạc, chạy theo lời ca tiếng hát. Người tụng kinh theo điệu ca hát là chú trọng nghệ thuật hơn là chú trọng sự tu tập giải thoát, cho nên họ cầu nguyện điều chi thì không thể nào thành công theo sự ước muốn trên lãnh vực thanh tịnh an lạc.


b, Cách tụng bằng Đan điền

Đan điền là trung tâm hội tụ và phát huy nội lực. Đan điền là nơi chỉ cho cái rún, tức là nơi huyệt Thần Khuyết. Cách tụng bằng Đan điền, có chỗ gọi là tụng bằng bụng, là tụng bằng phương thức nín thở, nghĩa là người tụng thở ra bằng miệng mà không phải thở ra bằng hai lỗ mũi, cũng gọi là tụng bằng phương thức nín thở. 

Người tu tập trước khi tụng hít hơi vào đầy bụng qua hai lỗ mũi rồi nín thở lúc đó chuyển qua thở ra miệng bằng lối tụng mà không phải thở ra bằng hai lỗ mũi nữa. Người tụng đến khi nào cảm thấy hết hơi liền tiếp tục hít hơi vào qua hai lỗ mũi rồi chuyển qua thở ra miệng bằng lối tụng và cứ như thế tiếp tục mãi cho đến khi hết thời kinh, đây gọi là tụng bằng Đan điền. 

Cách tụng này mới hội tụ được ngôn lực đi thẳng vào nội tâm, mới kích động được tâm lực chuyên chở ngôn lực và mới khơi nguồn được đạo lực của kinh chú chuyển âm giao cảm với tâm lực của chư Phật trong mười phương. Người tụng bằng Đan điền với mục đích là để hội tụ ngôn lực cũng giống như người lực sĩ trước khi cử tạ nặng 100kg phải nín thở để dồn lực tập trung vào Đan điền và nhờ đó mới cất nỗi một cái tạ năng 100kg nâng lên khỏi đầu mà không cảm thấy khó khăn. 

Tụng kinh bằng phương pháp nín thở cũng giống như phái Tịnh độ chủ trương niệm Phật bằng phương pháp hơi thở, nghĩa là thở ra nơi miệng bằng phương pháp niệm Phật, tức là người niệm Phật trước khi niệm hít hơi vào bằng hai lỗ mũi rồi niệm Phật để thở ra nơi miệng. Một hơi thở có thể niệm nhiều câu danh hiệu Phật và niệm danh hiệu Phật được nhiều hay được ít là tùy theo hơi thở của người niệm có dài hay có ngắn. Như họ chủ trương: “Hành giả niệm Phật mười hơi nhất tâm bất loạn sẽ được Phật độ”.


2. Sự khác biệt giữa ngôn lực tụng kinh với ngôn lực trì kinh và trì chú


Ngôn lực của người tụng kinh so sánh không bằng ngôn lực của người trì kinh và của người trì chú, mặc dù cả ba đều tụng bằng đan điền. Ngôn lực của người tụng kinh thì yếu hơn ngôn lực của người trì kinh và của người trì chú. Nguyên do:

a, Người Tụng kinh, nếu tụng một mình, mặc dù tụng bằng Đan điền và cách tụng chẩm rải và tụng đều từng chữ một theo tiếng mõ trường canh như đã trình bày ở trên nơi tiết mục Hạng Tụng kinh, ngôn lực của họ yếu hơn so với ngôn lực của người trì kinh và của người trì chú. Ngôn lục của người tụng kinh bằng Đan điền nhưng tụng theo nhịp điệu trường canh của tiếng mõ có giá trị ở chỗ là chỉ móc nối được tần số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh chư Phật mà không trực tiếp được thẳng đến tâm linh của chư Phật và chỉ chuyển đạt được tâm nguyện của mình lên chư Phật qua sự phóng quang để chứng minh gia hộ mà không đủ sức tự xóa nỗi những gốc rễ phiền não nghiệp chướng lâu đời thâm căn cố đế trong tâm khảm của người tụng. 

Hiện tượng đây cũng giống như chiếc máy bay chạy chậm không thể cất cánh được để bay lên trên trời xanh. Ở trường hợp này và theo cung cách tu tập nói trên, người tụng kinh bằng Đan điền muốn móc nối được tầng số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh của chư Phật để chuyển đạt tâm nguyện của mình nhờ chư Phật chứng minh gia hộ và đồng thời xóa tan những gốc rễ phiền não nghiệp chướng lâu đời trong tâm khảm chỉ có cách là phải nhờ cộng lực của nhiều người cùng tụng với mình trong một đạo tràng để hổ trợ thì mới đạt được sở cầu như nguyện. 

Cộng lực của nhiều người cùng tụng được hội tụ với mình vào một điểm ý nguyện tạo thành một năng lực có sức mạnh phi phàm lập tức chuyển đến chư Phật trong mười phương không có gì cản trở nỗi. Hiện tượng này cũng tương tợ như trời giữa trưa đang nắng gắt chúng ta lấy kiến lúp xem chữ gom những tia sáng mặt trời lại thành một điểm nhỏ và ngay lúc đó những tia sáng mặt trời càng hội tụ thì sức nóng càng tăng lên gấp bội có thể đốt cháy bất cứ bùi nhùi nào đưa vào.


b, Còn người Trì kinh thì cách thức đọc tụng không giống như người tụng kinh. Họ tụng kinh bằng phương pháp hành trì nhằm mục đích phát huy tột đỉnh năng lực của ngôn lực, của tâm lực, của đạo lực kinh chú để vừa chuyển đạt những tâm nguyện lên thẳng đến cảnh giới chư Phật mong nhờ chư Phật chứng minh thọ ký mà không cần phải qua tầng số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh chư Phật để giao cảm và đồng thời tận dụng những năng lực phi phàm này chuyển hóa tất cả hạt giống phiền não đã tàng trữ lâu đời trong Tạng Thức từ vô lượng kiếp về trước trở thành Bạch Tịnh Thức để sớm chứng quả vô thượng Bồ Đề. 

Những người trì kinh hay đòi hỏi họ phải thuộc lòng những kinh những mà họ hành trì và không cần phải lật kinh xem chữ để tụng và họ tụng rất nhanh chỉ nghe âm thanh tuôn chảy liên tục trên lời kinh như dòng thác nước chảy mà không nghe rõ những chữ của kinh. Họ tụng càng nhanh chừng nào càng hay chừng nấy giống như các thầy trong các tu viện tụng chú Lăng Nghiêm mỗi buổi sáng.


Họ tụng càng nhanh chừng nào thì năng lực càng phát triển mạnh theo tỷ lệ thuận chừng nấy cũng giống như chiếc máy bay chạy càng nhanh thì mới cất cánh lên được trên trời xanh.


Điều nên chú ý, những người trì kinh phần đông họ tụng riêng một mình mà không thể chung với đại chúng, nguyên vì đại chúng đa số không thuộc lòng kinh và làm trở ngại cho việc hành trì của họ. Có đại chúng thì phải tụng chậm theo cung cách tụng kinh đã trình bày ở trước để cho họ cùng tụng và như thế đạo tràng trở nên thanh tịnh không bị rối loạn do bởi âm thanh đại chúng không hòa hợp. 

Họ tụng một mình không cần phải tụng từng chữ theo tiếng mõ và trong lúc tụng kinh hoặc tụng chú, tiếng mõ chỉ là điểm từng đoạn thưa thưa để trợ lực trong lúc hành trì mà không cần đánh nhanh theo từng tiếng đọc tụng. Cung cách đọc tụng theo kiểu này gọi là Trì kinh.


c, Riêng người Trì chú cách tụng cũng giống như người Trì kinh. Nhưng các câu Chú thì ngắn hơn các kinh tụng, dễ thuộc lòng và dễ hành trì. Nhưng Thần chú thì khác hơn lời kinh, lời kinh thì có nghĩa lý nhưng Thần chú thì không thể cắt nghĩa, không diễn đạt, lời kinh thì phát ra đạo lực của trí tuệ, còn Thần chú thì phát ra thần lực của chơn ngôn. 

Lời kinh thì chuyển hóa con người được giác ngộ và giải thoát khổ sinh tử của chúng sinh, còn Thần chú thì giải trừ tai ách, bệnh tật, chuyển hóa nghiệp chướng oan khiên cho chúng sinh.


Người hành trì Thần chú có người tụng 7 biến một thời, có người tụng 21 biến một thời, có người tụng 100 biến một thời rồi tiếp tục tụng trở lại và tụng bằng cách nào không cố định là tùy theo người phát nguyện và miễn làm sao người trì chú đạt được sở nguyện là viên mãn.

IV. Kết luận

Người tu tập, muốn giải trừ được bệnh khổ ách nạn,thiên tai, ma chướng, muốn chuyển đạt được tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương và muốn tâm mình được thể nhập tâm chư Phật trong thế giới chân như phải hành trì theo ba cách sau đây:


1, Phải Tụng kinh bằng Đan điền thì mới tác động được tâm lực để chuyên chở ngôn lực cầu nguyện và mới phát huy được đạo lực trong kinh để giao cảm với tâm lực của chư Phật mà mình nguyện cầu. Muốn đạt thành sở nguyện, người tu tập không nên tụng kinh bằng nóc vọng và cũng không nên tụng kinh bằng lối ca hát vì sẽ làm mờ trí tuệ giác ngộ của người tu.


2, Phải Trì kinh để kinh Tạng thâm nhập tâm mình và nhờ đó trí tuệ của tâm mình mở rộng như biển cả. Có được như thế mới chuyển đạt được tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương mà mình nguyện cầu, mới có thể chuyển hoá được nghiệp chướng lâu đời trong tâm mình và nhờ đó tâm mình mới thể nhập được tâm chư Phật trong thế giới chân như.


3, Phải Trì chú để phát huy năng lực của Thần chú và nhờ đó mới tiêu trừ được thiên tai ách nạn, bệnh tật, ma chiêu, hoá giải được nghiệp chướng oan khiên lâu đời trong tâm khảm của mình; đồng thời được chư Phật, chư Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Thiện Thần đều đến gia hộ tâm nguyện được viên thành, cầu chi đều như ý, nguyện chi cũng đạt thành. Từ đó bến bờ giác ngộ và giải thoát không còn xa.


V. Những kinh chú thường trì tụng

Theo như các Thiền môn xưa quy định, những kinh chú căn bản thường trì tụng gồm có:


1. Những kinh thường trì tụng:


a. Cầu vãng sinh Cực lạc hay cầu siêu độ vong linh thì trì tụng: 

- Kinh tiểu bổn A Di Đà
- Kinh Bát Nhã


b. Cầu sinh về Niết bàn của Phật Thích Ca và cầu tăng thêm phước báo cho đời sống của mình và của gia đình mình thì trì tụng:


- Kinh Pháp Hoa
- Kinh Bát Nhã


c. Cầu an gia đạo thì trì tụng: 

- Kinh Phổ Môn

- Kinh Bát Nhã


d. Cầu giải trừ tật bệnh thì trì tụng:

- Kinh Dược Sư
- Kinh Bát Nhã


e. Sám hối tội lỗi thì tụng:


- Hồng Danh Bửu Sám, 
- Kinh Thuỷ Sám,
- Kinh Lương Hoàng Sám


g. Ngoài ra người tu tập còn tụng thêm các kinh khác như: 

- Kinh Vô Lượng Thọ,
- Kinh Lăng Nghiêm,
- Kinh Bát Đại Nhơn Giác,.v..v...


2. Những Thần chú thường trì tụng:


- Chú Lăng Nghiêm
- Chú Đại Bi
- Thập Chú..v..v...
Thích Thắng Hoan
PGVN

Ý kiến phản hồi

Xin vui lòng gõ Tiếng Việt có dấu