GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

LONG ĐIỀN - BÀ RỊA VŨNG TÀU

Cập nhật lúc 15:39:33 11-10-2016 (GMT+7) Lượt xem:12342

Ý NGHĨA PHÁP DANH

(PGVN) Theo truyền thống Phật giáo Việt Nam, mỗi khi một tín đồ phát tâm quy y Tam Bảo để chính thức trở thành một đệ tử của Đức Phật, vị Bổn Sư sẽ cho một tên mới gồm hai (2) chữ gọi là pháp danh sau khi thọ giới.

Pháp danh của người phật tử tại gia không có chữ Thích đi trước, mà chỉ có những chữ như Cư sĩ, Đạo hữu, Tín nữ, Phật tử…ở phía trước mà thôi. Ngoài ra tín đồ Phật giáo cũng được đặt pháp danh sau khi qua đời để xử dụng trong lúc cung hành tang lễ nếu như khi còn tại thế chưa quy y.
 
Một người sau khi quy y Tam bảo sẽ chính thức trở thành người phật tử, theo đó sẽ có một pháp danh cho riêng mình do thầy bổn sư 5 giới truyền trao
 
Pháp danh gồm hai (2) chữ: Chữ đầu chỉ sự liên hệ đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó. Chữ thứ hai là do vị Bổn Sư chọn lựa dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh) để tạo thành một chữ kép mang ý nghĩa hay, đẹp và có tính khuyến tu. Ví dụ: Người đệ tử tên Mỹ, quy y với vị Bổn Sư có Pháp danh chữ trước là TÂM ( thượng Tâm) sẽ có Pháp danh chữ trước là Nguyên; chữ sau có thể là Mãn. Tức là Nguyên Mãn: chữ Nguyên theo thứ tự thế hệ trong bài kệ của Ngài Tổ Liễu Quán, còn chữ Mãn là theo tên của người đệ tử là Mỹ, tạo thành một chữ kép có nghĩa tu hành được tốt đẹp (Mỹ Mãn). Đôi khi tên người đệ tử đã mang sẵn chữ có ý nghĩa đạo và ý nghĩa phù hợp với chữ trong bài kệ, vị Bổn sư để nguyên và không cần thay đổi, hoặc tên không thể tìm được chữ ghép thì có thể lấy chữ trong tên của các vị La Hán, Bồ Tát v.v… để tạo thành Pháp danh. Các Ngài bổn Sư trước đây thường lấy chữ trong cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho đệ tử.
 
Phật giáo Việt Nam hiện nay đều xuất từ Thiền Tông và đa số thuộc dòng Tào Động (miền Bắc), Lâm Tế (miền Trung và miền Nam). Các Long vị của các Ngài Tổ đều ghi Lâm Tế, nhưng pháp tu lại kiêm cả Tịnh và Mật Tông. Ví dụ, ở Huế hiện ít nhất cũng đang truyền thừa theo ba (3) bài kệ của từng vị Tổ môn phái xuất kệ nhưng đều thuộc dòng Lâm Tế.
 
Bài kệ của Ngài Thiền Sư Vạn Phong Thời Uỷ ( Môn phái Hải Đức, Huế. Môn phái Thập Tháp Di Đà, Bình Định, đều dùng bài kệ này:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Tổ Đạo Giới Định Tông     祖導戒定宗
 
Phương Quảng Chứng Viên Thông     方廣證圓通
 
Hạnh Siêu Minh Thật Tế     行超明寔際
 
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không     了達悟真空
 
Như Nhật Quang Thường Chiếu     如日光常照
 
Phổ Châu Lợi Ích Đồng     普周利人天
 
Tín Hương Sanh Phước Huệ     信香生福慧
 
Tương Kế Chấn Từ Phong     相繼振慈風
 
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở khoảng chữ CHƠN.

 Đa số các chùa khác thuộc môn phái Ngài Liễu Quán và dùng bài kệ sau:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Thật Tế Đại Đạo     實際大導
 
Tánh Hải Thanh Trừng     性海清澄
 
Tâm Nguyên Quảng Nhuận     心源廣潤
 
Đức Bổn Từ Phong     德本慈風
 
Giới Định Phước Huệ     戒定福慧
 
Thể Dụng Viên Thông     體用圓通
 
Vĩnh Siêu Trí Quả     永超智果
 
Mật Khế Thành Công     密契成功
 
Truyền Trì Diệu Lý     傳持妙里
 
Diễn Sướng Chánh Tông     演暢正宗
 
Hạnh Giải Tương Ưng     行解相應
 
Đạt Ngộ Chơn Không     達悟真空
 
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ TRỪNG.
 
Hai dòng nầy phát triển rất mạnh ở miền Trung và miền Nam. Ngoài ra ở Huế có môn phái chùa Quốc Ân do Tổ Nguyên Thiều lập lại dùng bài kệ của Ngài Đạo Mân đời thứ 31 như sau:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên     導本原成佛祖先
 
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên     明如紅日麗中天
 
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ     靈源廣潤慈風溥
 
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền     照世真燈萬古懸
 
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ LỆ.
 
Riêng ở Quảng Nam Đà Nẳng có môn phái chùa Chúc Thánh thuộc Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ khác như sau:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Minh Thật Pháp Toàn Chương     明寔法全章
 
Ấn Chơn Như Thị Đồng     印真如是同
 
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu     祝聖壽天久
 
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường     祈國祚地長
 
Đắc Chánh Luật Vi Tuyên     得正律為宣
 
Tổ Đạo Hạnh Giải Thông     祖導行解通
 
Giác Hoa Bồ Đề Thọ     覺花菩提樹
 
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung     充滿人天中
 
Ngoài ra còn những bài kệ khác như của Ngài Trí Thắng Bích Dung đời thứ 41 biệt xuất như sau:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Trí Huệ Thanh Tịnh     智慧清淨
 
Đạo Đức Viên Minh     道德圓明
 
Chơn Như Tánh hải     真如性海
 
Tịch Chiếu Phổ Thông     寂照普通
 
Tâm Nguyên Quảng Tục     心源廣續
 
Bổn Giác Xương Long     本覺昌隆
 
Năng Nhơn Thánh Quả     能仁聖果
 
Thường Diễn Khoan Hoằng     常演寬宏
 
Duy Truyền Pháp ấn     惟傳法印
 
Chánh Ngộ Hội Dung     正悟會容
 
Không Trì Giới Hạnh     空持戒行
 
Vĩnh Kế Tổ Tông     永繼祖宗
 
Ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc cũng biệt xuất bài kệ:
 
Âm Hán Việt   ----->  Chữ Hán
 
Minh Chơn Như bảo Hải     明真如寶海
 
Kim Tường Phổ Chiếu Thông     金祥普照通
 
Chí Đạo Thành Chánh Quả     至導成正果
 
Giác Ngộ Chứng Chơn Thường     覺悟證真空
 
Ngài Tri Giáo Nhất Cú tông Tào Động cũng xuất bài kệ:
 
Âm Hán Việt  ----->   Chữ Hán
 
Tịnh Trí Viên Thông Tông Từ Tánh     淨智圓通宗慈性
 
Khoan Giác Đạo Sanh Thị Chánh Tâm     寬覺道生是正心
 
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ     密行仁德稱良慧
 
Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường     燈普照宏法永長
 
Ba bài kệ sau cùng, người viết chưa đủ duyên để được gặp quý Thầy thuộc các môn phái đó nên không biết những chi tiết khác.
 
Ngoài ra trong thời gian gần đây, về phía nữ Phật tử cũng có một số được đặt pháp danh mang chữ Diệu, Minh như Phật giáo Nhật Bản, Trung Quốc v.v… Trên đây là những điều mà cá nhân người viết đã may mắn được sự chỉ dẫn và giải thích của Quý Thầy trong thời gian học hỏi và phụ giúp về nghi Lễ.

Ngoài ra, trong nghi lễ pháp danh chỉ được dùng trong Sớ để tác bạch lên chư Phật và Bồ Tát mà thôi, còn các việc khác bậc xuất gia đã có Pháp tự, Pháp hiệu; tại gia có tự, hiệu…

Ý kiến phản hồi

Xin vui lòng gõ Tiếng Việt có dấu