HỘI ĐỒNG TRỊ SỰ
--------------------
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
35 NĂM THÀNH LẬP, ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN
I. PHẦN THỨ NHẤT: SỰ RA ĐỜI TỔ CHỨC GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM (07/11/1981) LÀ MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ TẤT YẾU.
Lịch sử 2.000 năm Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó đồng thành cùng dân tộc. Phật giáo đã hòa quyện với văn hóa dân tộc góp phần bảo vệ văn hóa Việt Nam trước các cuộc xâm lăng đồng hóa văn hóa từ phương Bắc. Phật giáo trở thành thành tố văn hóa của dân tộc. Trong giai đoạn Lý - Trần Phật giáo đã góp phần định hình Quốc gia dân tộc, định đô Thăng Long và đóng góp quan trọng vào bang giao quốc tế của các triều đại Việt Nam trong lịch sử. Sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập có thể nói là sự thống nhất các hệ phái đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, với tinh thần nhập thế, Phật giáo Việt Nam đã đóng góp công sức làm lên chiến thắng vĩ đại trong lịch sử đấu tranh giải phóng giành độc lập của dân tộc.
Sau ngày 30/04/1975, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, giang sơn nối liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà. Đây là yếu tố hết sức mãnh liệt và là bối cảnh vô cùng thuận lợi, là động lực để chư Tôn Giáo phẩm, Tăng Ni, Phật tử các tổ chức Giáo hội, Hệ phái thực hiện nguyện vọng, tâm huyết thống nhất Phật giáo mà các thế hệ tiền bối đã dày công tạo dựng. Đây chính là duyên khởi của sự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đại hội Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức từ ngày 04 đến ngày 07/11/1981 tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội. Đại hội quy tụ 09 tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo trong cả nước:
1. Hội thống nhất Phật giáo Việt Nam.
2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
3. Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.
4. Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Tp. Hồ Chí Minh.
5. Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam.
6. Giáo hội Thiên Thai Giáo Quán.
7. Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam.
8. Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước miền Tây Nam bộ.
9. Hội Phật học Nam Việt.
Kể từ đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động Phật sự theo hướng đi lên của thời đại, đến nay đã tròn 35 năm, trải qua 07 nhiệm kỳ.
II. PHẦN THỨ HAI: THÀNH TỰU PHẬT SỰ 35 NĂM CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
A. SỰ TRƯỞNG THÀNH VỀ MẶT TỔ CHỨC GIÁO HỘI.
Khi mới thành lập tháng 11 năm 1981 nhiệm kỳ đầu là thời kỳ xây dựng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm 2 hội đồng: Hội đồng Chứng minh 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 49 thành viên, có 06 Ban ngành Trung ương và 28 Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo hoạt động. Từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ V là thời kỳ củng cố và phát triển. Trải qua 35 năm, nhiệm kỳ VII là nhiệm kỳ kế thừa, ổn định và phát triển bền vững, kiện toàn và đổi mới tổ chức. Hiện nay tổ chức GHPGVN có số lượng 89 thành viên HĐCM, 199 Ủy viên Hội đồng Trị sự và 66 Ủy viên dự khuyết. Hệ thống tổ chức Giáo hội gồm 13 Ban Viện Trung ương hoạt động chuyên ngành như Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hóa, Kinh tế Tài chánh, Phật giáo quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học. Hệ thống tổ chức Giáo hội thống nhất từ Trung ương đến các địa phương. Thành tựu nổi bật sau 35 năm về công tác tổ chức Giáo hội là Giáo hội đã thành lập Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kiện toàn và nâng tầm hệ thống quản lý hành chính Phật giáo cấp quận, huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh. Giáo hội quản lý 08 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài. Tất cả đều hoạt động theo Hiến chương GHPGVN.
B. THÀNH TỰU PHẬT SỰ CÁC BAN NGÀNH VIỆN
1. Công tác Tăng sự:
Tăng sự là hoạt động trọng tâm của Giáo hội, sau 35 nămGiáo hội Phật giáo Việt Nam quản lý Tăng Ni, Phật tử trên toàn quốc tính đến nay với số lượng 49.493 Tăng Ni. Số lượng chùa và tự viện có 17.376 ngôi và có hàng chục triệu tín đồ Phật tử tu học thường xuyên tại các cơ sở tự viện với số lượng tăng lên hàng năm qua các khóa truyền thụ Tam quy ngũ giới ở hầu hết các địa phương, nhất là các tỉnh mới thành lập ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, cùng với hơn 50 triệu những người yêu mến đạo Phật trong cả nước.
Phật sự nổi bật của Ban Tăng sự TƯ trong 35 năm qua là tổ chức, quản lý tốt công tác Tăng Ni, tự viện. Hướng dẫn thống kê Tăng Ni tự viện, thực hiện việc cấp giấy chứng nhận Tăng Ni, An cư kết hạ, thuyên chuyển vùng tu học và sinh hoạt Phật sự, bổ nhiệm trụ trì các chùa trên cả nước.
Ban Tăng sự Trung ương đã tổ chức các hội nghị Tăng sự toàn quốc và các hội thảo khoa học chuyên ngành nhằm đáp ứng được việc quản lý, chấn chỉnh sinh hoạt Tăng ni tự viện trong thời kỳ mới.
Sự ra đời của phân Ban Ni giới Trung ương trực thuộc Ban Tăng sự hoạt động rất có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực Phật sự, đóng vai trò quan trọng trong thành tựu Phật sự chung của Giáo hội, nhất là công tác từ thiện xã hội. Từ khi thành lập tháng 11/ 2008, đến nay có 43 Phân ban Ni giới tỉnh thành được thành lập.
Ban Tăng sự Trung ương cũng đặc biệt quan tâm đến sự đoàn kết các hệ phái Phật giáo, hỗ trợ các hoạt động Phật sự của Phật giáo Nam tông Khmer, Trung ương GHPGVN đã tổ chức thành công 07 kỳ Hội nghị Chuyên đề Phật giáo Nam tông Khmer tại các tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang.
2. Công tác giáo dục đào tạo Tăng ni:
Giáo dục và đào tạo Tăng Ni có trình độ Phật học căn bản và nâng cao là một trong những Phật sự trọng tâm của Giáo hội. Do đó, công tác giáo dục luôn được lãnh đạo các cấp Giáo hội quan tâm, chú trọng và tạo điều kiện để giáo dục Phật giáo luôn được phát triển.
Ngay từ khi GHPGVN được thành lập đức Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN đã đề nghị Chính phủ cho phép thành lập các trường đào tạo Phật giáo. Ngay trong năm 1981 Trường cao cấp Phật học Việt Nam đã được thành lập tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội. Sau 35 năm đến nay Giáo hội có 4 Học viện mà tiền thân là trường Cao cấp Phật học Việt Nam: Học viện Phật giáo tại Hà Nội, tại Huế, tại Tp Hồ Chí Minh và tại Tp Cần Thơ. Đến nay các Học viện đã đào tạo gần 7000 Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân Phật học, đang đào tạo trên 2000 Tăng Ni sinh.
Hệ Cao đẳng Phật học có 08 Lớp Cao đẳng Phật học đã đào tạo hơn 2000 Tăng Ni sinh tốt nghiệp; và đang đào tạo hơn 1000 Tăng Ni sinh. Cả nước có 31 Trường Trung cấp Phật học, đã đào tạo gần 10.000 Tăng Ni sinh tốt nghiệp Trung cấp Phật học, đang đào tạo gần 5000 Tăng Ni sinh. Hầu hết các tỉnh đều mở lớp Sơ cấp Phật học.
Nhiều các bộ kinh điển đã được phiên dịch ra tiếng việt, Ban Giáo dục Tăng Ni đã soạn thảo giáo trình và bộ sách giáo khoa Phật học căn bản phục vụ công tác đào tạo các trường Trung cấp trong cả nước.
Thành tựu nổi bật sau 35 năm của công tác đào tạo Tăng Ni là việc Giáo hội đã chủ động gửi các Tăng Ni sinh đi du học nước ngoài. Đến nay Giáo hội đã giới thiệu 476 tăng ni đang du học ở nước ngoài: Ấn Độ, vùng lãnh thổ Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Myanma, Thái Lan… Đến nay đã có khoảng 115 tăng ni sinh đã tốt nghiệp trình độ Thạc sĩ, tiến sĩ về nước phục vụ công tác Giáo hội đây là nguồn nhân lực của hệ thống đào tạo giáo dục Tăng Ni của Giáo hội.
Với đội ngũ giảng viên hùng hậu, có trình độ ngang bằng các trường Đại học trong nước và Quốc tế, Giáo hội đã được Nhà nước cho phép đào tạo hệ Cao học thạc sĩ, tiến sĩ Phật học tại Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký quyết định cho phép Đại học Quốc gia Hà Nội thành lập Viện Trần Nhân Tông cũng là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho Phật giáo trong tương lai góp phần việc thúc đẩy công tác đào tạo Tăng Ni của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
3. Công tác hoằng pháp:
Ban Hoằng pháp Trung ương là một trong những ban viện quan trọng trong tổ chức Giáo hội thực hiện sứ mệnh Hoằng dương Chính pháp lợi lạc quần sinh đem ánh sáng đạo Phật vào đời sống nhân dân.
Trải qua 7 nhiệm kỳ cào tạo 10 khóa, với 890 Tăng Ni tốt nghiệp. Nhiều lớp bồi dưỡng giảng sư cao cấp và trung cấp được mở ra để tạo nguồn nhân lực cho công tác hoằng pháp, tìm ra phương thức hoằng pháp phù hợp với từng đối tượng, vùng miền với nhiều hình thức khác nhau; thành lập, thăm viếng, thuyết giảng và nâng cao hiệu quả sinh hoạt của các Đạo tràng, các Câu lạc bộ phật tử, đa dạng hóa hình thức hoằng pháp: tập hợp thanh niên, sinh viên của các trường Cao đẳng, ĐH với các hình thức sinh hoạt đa dạng, hấp dẫn giới trẻ, tổ chức các lớp thi giáo lý, kết hợp giảng giáo lý với các lễ hội, với công tác từ thiện của Ban từ thiện xã hội, với các câu lạc bộ phật tử của Ban hướng dẫn Phật tử, với Ban Phật giáo quốc tế: hoằng pháp châu Âu và các nước: Nga, Séc, Ucraina, Ba Lan, Đức, Úc, Mỹ…
Ban Hoằng Pháp các tỉnh thành khu vực phía Bắc đã nỗ lực hoạt động thuyết giảng cho các Phật tử tại các giảng đường và khóa an cư kiết hạ. Chư tôn đức trong Ban Hoằng pháp phối hợp cùng các vị trụ trì tổ chức khóa tu Bát quan trai, Niệm Phật, trì Chú Đại Bi, mỗi giảng đường có từ 200 đến trên 1.500 Phật tử tham dự thính pháp, tu tập.
Tại các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam có 977 đạo tràng, 351 lượt giảng sư thuyết giảng, có 17.795 thời giảng, 257.492.200 lượt Phật tử tu tập và thính pháp. các Đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu tập Bát Quan trai, các lớp giáo lý tại địa phương tương đối đồng bộ và đều khắp, tạo nên tinh thần say mê học Phật trong các giới Cư sĩ, Phật tử tại gia mỗi điểm giảng trung bình có từ 300 đến 2.000;có tỉnh nhân mùa Phật đản kết hợp việc thuyết pháp và văn nghệ đã thu hút 10.000 Phật tử thính pháp như tỉnh Bình Dương, tỉnh Khánh Hòa.
Với phương châm: Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sinh vi bản hoài, hoạt động của Ban Hoằng pháp trong năm qua sôi nổi nhất trong các hoạt động chuyên ngành của Giáo hội. Các thành quả hoạt động của công tác Hoằng pháp đã góp phần truyền bá giáo pháp Đức Phật đến mọi tầng lớp đồng bào Phật tử, tăng trưởng đạo tâm, phát huy chánh tín, tạo nguồn an lạc, giải thoát, ổn định trong cuộc sống và sự tu tập theo Chánh pháp của người Phật tử tại gia.
4. Công tác Hướng dẫn Phật tử:
Công tác hướng dẫn Phật tử ngày càng được đa dạng và làm phong phú hình thức sinh hoạt của Phật tử. Sinh hoạt của Gia đình Phật tử vẫn là một nhu cầu cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt của Phật tử (hiện có 1003 đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt trong Giáo hội; 8.560 Huynh trưởng và 65.650 Đoàn sinh.) theo sơ bộ tổng hợp hiện nayhiện có 907 đạo tràng Tu Bát Quan trai, 81 đạo tràng Tu thiền, 163 đạo tràng Pháp hoa, 91 đạo tràng Đại Bi, Dược Sư, Niệm Phật, 82 đơn vị tổ chức khóa tu một ngày an lạc, và hàng trăm lớp giáo lý với hàng triệu Phật tử thường xuyên tu tập: Đạo tràng Bát Quan trai, Đạo tràng tu thiền, Đạo tràng niêm Phật, Đạo tràng Tịnh độ, Phật thất, Đạo tràng Dược sư, Đại bi, Pháp Hoa…, hình thức Câu lạc bộ thanh thiếu niên Phật tử sinh hoạt rất sôi động và có hiệu quả, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hiện đại của thời đại kỹ thuật số vào công tác hoằng pháp phù hợp với giới trẻ. Ban Hướng dẫn Phật tử đặc biệt chú trọng đến nhiều tầng lớp, thành phần của xã hội, trong đó tập trung đến lớp thanh thiếu niên và đội ngũ trí thức. Hàng trăm nghìn Phật tử đã tham gia các khó tu do các BTS, Ban HDPT, Ban Hoằng Pháp tổ chức cho thấy nhu cầu tu tập và được hướng dẫn tu tập là rất cao trong xã hội và đòi hỏi Giáo hội phải quan tâm đáp ứng.
Ban HDPT đã tổ chức nhiều các hội trại sinh hoạt tại hầu hết các tỉnh thành phố, trong 35 năm qua đã tổ chức nhiều hội trại khắp cả nước có hàng chục nghìn thanh thiếu niên đã tham dự các khóa tu mùa hè cho các cháu thanh thiếu niên Phật tử và học sinh đã trở thành một nét đặc sắc đáp ứng nhu cầu giáo dục hè cho các cháu học sinh, và đặc biệt là các hội thi giáo lý, các khóa truyền quy y cho các đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và các vùng miền núi, hải đảo. Phong trào tiếp sức mùa thi được tổ chức tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngoài ra là phong trào hiến máu nhân đạo, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn…đã được Ban HDPT các tỉnh, thành phố tổ chức tốt.
Ngoài ra, tại các khóa Hội thảo, Hội nghị, hay tổ chức Đại lễ Quy y cho đồng bào Phật tử, nhất là Phật tử các vùng dân tộc, tây nguyên, Ban Hướng dẫn Phật tử đều kết hợp với Ban Hoằng pháp để thuyết giảng Phật pháp và Ban Từ thiện Xã hội để thực hiện các công tác từ thiện, thể hiện trọn vẹn tinh thần và bổn phận của người Phật tử tại gia đối với Đạo pháp và Xã hội.
5. Công tác Nghi lễ:
Thành tích của Ban Nghi lễ trong 35 năm qua được nhìn nhận trong sự cố gắng của Ban nghi lễ các tỉnh thành đã tích cực góp phần vào trang nghiêm các Đàn giới được tổ chức, các nghi lễ khai pháp, tạ pháp tại các Hạ trường, lễ quy y...
Nhìn chung, Đại Lễ Phật đản được Trung ương Giáo hội, Ban Trị sự GHPGVN các tỉnh, thành phố và quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cũng như tại các Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường đều tổ chức trang nghiêm trọng thể.
Giáo hội đã trang nghiêm trọng thể tổ chức Lễ tưởng niệm các bậc tiền bối hữu công, Chư tôn t đức Trưởng lão các tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ, Chư tôn đức Giáo phẩm thành viên Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự GHPGVN, chư Tôn đức Tăng Ni viên tịch thể hiện tinh thần tri ân và báo ân của người con Phật.
Đặc biệt, GHPGVN đã 02 lần đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Vesak Liên hợp Quốc vào năm 2008 và 2014 tại Việt Nam, thành công rực rỡ, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp cho bạn bè quốc tế và khu vực về đất nước Việt Nam, Văn hóa dân tộc và Văn hóa Phật giáo Việt Nam, một Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước.
Nét nổi bật của Ban Nghi lễ trong thời gian qua là tổ chức Đại lễ cầu siêu quốc gia tưởng niệm anh linh các anh hùng liệt sĩ tại các nghĩa trang quốc gia và các Ban Trị sự GHPGVN tỉnh thành phố đã đặt vòng hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ nhân ngàyThương binh Liệt sĩ 27/7 tại nghĩa trang các tỉnh, thành phố.
Kết hợp với Ủy ban an toàn giao thông quốc gia và các tỉnh thành phố tổ chức Đại lễ cầu siêu nạn nhân bị tai nạn giao thông.
6. Công tác Văn hóa:
Trong 35 năm qua với chức năng và nhiệm vụ được giao, bằng tinh thần và trách nhiệm, Ban Văn hóa Trung ương đã thực hiện một số công tác văn hóa trọng tâm như :
Về việc trùng tu, xây dựng cơ sở Phật giáo: Được sự giúp đỡ của các cơ quan lãnh đạo Trung ương và địa phương có liên quan, công tác trùng tu, kiến tạo hàng nghìn cơ sở Tự viện Tổ đình, danh lam thắng cảnh của Phật giáo cả nước được tiến hành có kết quả, nhất là các cơ sở tại vùng biên giới và hải đảo, góp phần trang nghiêm cơ sở tại địa phương, tạo thêm vẻ mỹ quan cho xã hội. Có 257 Tự viện được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, hàng trăm Tự viện được công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh, thành. Đặc biệt xây dựng các ngôi chùa tại biên giới hải đảo như chùa Bản Giốc, chùa Tà Lùng tỉnh Cao Bằng, chùa Tân Thanh tỉnh Lạng Sơn, tại Phú Quốc, tại Côn Đảo và các ngôi chùa tại quần đảo Trường Sa. Ngoài ra có nhiều công trình lớn được trùng tu xây dựng và khánh thành như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (huyện Sóc Sơn); Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh (cơ sở Lê Minh Xuân); công trình xây dựng trụ sở Văn phòng như Trụ sở Văn phòng Trung ương Giáo hội - Chùa Quán Sứ, Hà Nội; Văn phòng 2 TWGH - Thiền viện Quảng Đức; nhiều trụ sở Ban Trị sự các tỉnh thành và Trung tâm văn hóa Phật giáo đã được xây.
Tạp chí Văn hóa Phật giáo; Ấn phẩm Văn hóa Phật giáo Việt Nam của Ban Văn hóa Trung ương; Tạp chí Nghiên cứu Phật học của Phân Viện NCPH; Tạp chí Nghiên cứu Phật học Khuông Việt; Tạp chí Phật giáo Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông; Tuần báo Giác ngộ, Nguyệt san Giác ngộ, các số báo đặc biệt như báo Xuân, báo Phật đản, Vu Lan, Thành đạo được đọc giả đánh giá cao về mặt nội dung và hình thức. Trang báo điện tử của Trung ương GHPGVN, Giác ngộ online, Ban Hoằng pháp Trung ương, Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương, Ban Thông tin Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Trung tâm văn hóa Liễu Quán (Thừa Thiên Huế),
Nhân các sự kiện Đại lễ Phật đản, Đại lễ kỷ niệm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các kỳ Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc, các Đại lễ lớn của Giáo hội, đã tổ chức triển lãm những hình ảnh hoạt động Phật sự chuyên ngành được đông đảo Tăng Ni, Phật tử, sinh viên, học sinh, học giả, nhà nghiên cứu tham gia.
Từng bước triển khai thực hiện 04 đề án: Pháp phục Phật giáo Việt Nam, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam và Di sản Văn hóa Phật giáo Việt Nam. Tổ chức các đoàn thăm viếng, làm việc với Ban Trị sự, Ban Văn hóa Phật giáo tại các tỉnh, thành phía Bắc, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông và miền Tây. Tổ chức thành công nhiều hội thảo Văn hóa Phật giáo toàn quốc và triển lãm Văn hóa Phật giáo, và tổ chức lễ hội Phật giáo vùng miền.
Nhiều con đường được mang tôn danh các vị Quốc sư, Thiền sư, các bậc danh tăng có nhiều cống hiến cho Đạo pháp và Dân tộc như: Thiền sư Vạn Hạnh, Quốc sư Khuông Việt, Sư Liễu Quán, Sư Thiện Chiếu, Thích Quảng Đức, Sư Minh Nguyệt, Thích Thuận Đức, Thích Thế Long, Ni sư Huỳnh Liên, Cư sĩ Lê Đình Thám, Nhất Chi Mai .v.v…
7. Hoạt động của Ban Kinh tế Tài chính:
Ban Kinh tế tài chính đã không ngừng đổi mới phương thức hoạt động phù hợp giữa đạo với đời trong hoạt động kinh tế Phật giáo.
Hằng năm, Ban Kinh tế Tài chánh Trung ương đều có thông bạch vận động các Ban Trị sự Phật giác các tỉnh thành, Tăng Ni, Phật tử, các doanh nghiệp cúng dường công đức phí cho các hoạt động của Trung ương Giáo hội và địa phương. Bên cạnh đó Ban Tài chính đã cố gắng thành lập một số công ty hoạt động theo luật doanh nghiệp trong các lĩnh vực văn hóa, du lịch, hệ thống phòng phát hành kinh sách, cung cấp nguồn hàng văn hóa phẩm Phật giáo đến các cơ sở Tự viện.
Ban kinh tế đã nỗ lực đảm bảo nguồn tài chính trong việc tổ chức các hội nghị, Đại hội, Đại lễ lớn của Giáo hội.
8. Công tác từ thiện xã hội:
Là một trong những công tác Phật sự trọng yếu của Giáo hội, công tác từ thiện và sự nghiệp chăm lo an sinh xã hội đã được Giáo hội chỉ đạo Tăng Ni, Phật tử và các chùa, tự viện các thành viên thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời. Công tác từ thiện tập trung vào các hoạt động của các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già cô đơn, người tàn tật với 50 cơ sở.
Giáo hội hiện có trên 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị Y học Dân tộc, 01 phòng khám Đa khoa đang hoạt động có hiệu quả, khám và phát thuốc miễn phí cho hàng chục ngàn lượt bệnh nhân.
Giáo hội luôn có mặt đúng lúc và kịp thời cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt và tham gia tích cực ủng hộ phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm sóc các đối tượng người có công với đất nước. Phát quà từ thiện, xây cầu, làm đường, phát xe lăn, hiến máu nhân đạo, quỹ khuyến học, ủng hộ các chiễn sỹ biển đảo bám biển Hoàng Sa, Trường Sa của tổ quốc…kết quả công tác từ thiện xã hội trong 35 năm qua đạt số liệu rất cao, ước tính khoảng 7.000 tỷ đồng.
Đặc biệt Giáo hội còn thực hiện công tác cứu trợ quốc tế như cứu trợ nhân dân các nước Đông Nam Á bị sóng thần, đồng bào vùng Đông Bắc Nhật Bản bị động đất và sóng thần, động đất tại Népal.
Ngoài những công tác từ thiện nêu trên, những công tác phúc lợi xã hội khác như: xây dựng các trường Mần non, trường nuôi dạy trẻ em, trường nuôi dạy trẻ em bất hạnh, khuyết tật, trẻ em bị ảnh hưởng chất độc màu da cam cũng được nhân rộng và phát triển đúng hướng, góp phần làm giảm bớt gánh nặng cho gia đình các em và cho xã hội. Xây cầu bê tông, đắp đường giao thông nông thôn, đóng giếng nước sạch, hiến máu nhân đạo, đóng góp các quỹ từ thiện vì người nghèo, học sinh hiếu học, giúp phụ nữ nghèo vượt khó, tặng xe đạp cho học sinh, xe lăn, xe lắc cho bệnh nhân nghèo, tặng xuồng ghe, hỗ trợ áo quan, hỗ trợ mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo bị đục thủy tinh thể, bệnh tim nhi, phát quà tết, quà trung thu cho các cháu thiếu nhi, nồi cháo tình thương, bữa ăn từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện, phòng khám đa khoa v.v… đều được các thành viên Ban Từ thiện xã hội Trung ương, các tỉnh, các cơ sở tự viện, Tăng Ni, Phật tử tích cực tham gia.
9. Công tác đối ngoại Phật giáo quốc tế:
Ngay từ khi mới thành lập, GHPGVN được thừa hưởng mối bang giao quốc tế của chư vị tiền bối với tư cách là thành viên sáng lập hội Liên hữu Phật giáo Thế giới, thành viên tích cực tham gia vào tổ chức Phật giáo quốc tế như hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình (ABCP), bang giao với các nước Phật giáo Mông Cổ, các nước thuộc Liên Xô cũ, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước Phật bạn Lào, Campuchia anh em. Trong 35 năm qua từ chỗ không chủ động trong các mối quan hệ bang giao Phật giáo quốc tế, GHPGVN đã tích cực thể hiện sự chủ động và khẳng định vai trò của mình trong hội nhập quốc tế. Giáo hội đã trở thành thành viên của các tổ chức Phật giáo lớn trên thế giới: Thành viên sáng lập Liên Minh Phật giáo thế giới (Ấn Độ), Hội Phật giáo Thế giới truyền bá chánh pháp, Hội đệ tử Như Lai tối thượng (Srilanka), Ủy ban Quốc tế Đại lễ Vasak Liên Hợp Quốc (Thái Lan), Ủy ban Đại học và Cao đẳng Phật giáo Thế giới tại Thái Lan, thanh viên Hội Sakyadhita thế giới, cũng như lãnh đạo Hội Phật tử Việt Nam tại Nga, Pháp và Châu Âu.
Thông qua việc tổ chức các đoàn của GHPGVN đi thăm viếng Phật giáo các nước, cũng như đón tiếp các phái đoàn Phật giáo các nước tăng cường tình hữu nghị và làm sâu sắc mối quan hệ quốc tế.
Nhằm trao đổi kiến thức và giao lưu về mặt học thuật trên diễn đàn Phật giáo quốc tế GHPGVN đã cử đoàn tham dự 66 cuộc Hội nghị và hội thảo quốc tế tại các nước như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Mỹ, …. Đặc biệt đoàn đại diện GHPGVN đã tham dự 6 lần Đại lễ vesak Liên Hợp Quốc tại Thái Lan và 2 lần Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại New York (Hoa Kỳ)
Với quyết tâm và nỗ lực của mình, GHPGVN còn đăng cai tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc năm 2008 (tại trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội) và năm 2014 (tại Bái Đính, tỉnh Ninh Bình) với sự hiện diện của gần 100 quốc gia và các vùng lãnh thổ trên thế giới, đạt nhiều thành quả tốt đẹp qua cái nhìn đầy khâm phục của các nước Phật giáo và các tổ chức quốc tế về Việt Nam nói chung, GHPGVN nói riêng. Đây là thành tựu nổi bật nhất trong sứ mệnh hội nhập quốc tế của GHPGVN.
Giáo hội cũng đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Nữ giới Phật giáo Thế giới lần thứ XI tại Nhà truyền thống Văn hóa Phật giáo TP HCM.
Thành tựu Phật giáo Quốc tế còn đánh dấu qua việc nhận lời mời của GHPGVN thủ tướng Srilanka đã thăm và tham dự Vasak tại Bái Đính Ninh Bình, năm 2014. Nhận lời mời của GHPGVN thủ tướng cộng hòa Ấn Độ Naran Da MoNi thăm trụ sở Trung ương GHPGVN tháng 9/2016 và trong tuyên bố chung của Thủ tướng 2 nước đã có điều khoản Ấn Độ cấp học bổng cho Tăng Ni giáo hội Phật giáo Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Ấn Độ qua đó khẳng định vai trò của GHPGVN trong hoạt động đối ngoại nhân dân. Chư tôn đức Lãnh đạo GHPGVN đã tham gia đoàn của Chủ tịch nước thăm hữu nghị chính thức Campuchia năm 2014, tham gia đoàn của Tổng Bí Thư thăm chính thức Hợp Chủng quốc Hòa Kỳ năm 2015.
10. Pháp chế, Kiểm soát:
Ban Pháp chế, Ban Kiểm soát là một trong ba Ban mới được thành lập tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012). Với chức năng chuyên ngành, Ban Pháp chế và Ban Kiểm soát Trung ương đã tham mưu cho Ban Thường trực HĐTS, Văn phòng Trung ương Giáo hội trong công tác giải quyết các vấn đề khiếu nại, tố cáo liên quan đến nhân sự, Tăng Ni, Tự viện.
Trên tinh thần trách nhiệm, Ban Pháp chế và Ban Kiểm soát Trung ương đã tham dự Hội nghị Sinh hoạt Giáo hội, các phiên họp giao ban của Ban Thường trực HĐTS, Văn phòng Trung ương Giáo hội; trực tiếp tham mưu, đóng góp ý kiến với Ban Thường trực Hội đồng Trị sự, Văn phòng Trung ương Giáo hội trong các công tác Phật sự.
Để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về công tác Pháp chế, công tác Kiểm soát với Ban Pháp chế, Ban Kiểm soát địa phương, cũng như triển khai Nội quy, chương trình hoạt động của Ban, Ban Pháp chế và Ban Kiểm soát đã tổ chức các phiên họp Thường trực và Hội nghị chuyên đề.
Ban Pháp chế, Ban Kiểm soát các tỉnh, thành phố đều tích cực hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ được Ban Trị sự GHPGVN các cấp giao phó, góp phần ổn định tình hình sinh hoạt Tăng Ni, tự viện tại địa phương, nhất là công tác tổ chức Đại hội Phật giáo cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nhiệm kỳ 2016 – 2021.
11. Thông tin Truyền thông:
Ban Thông tin Truyền thông được thành lập tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII năm 2012. Tuy mới được thành lập, nhưng các hoạt động thông tin truyền thông của Giáo hội rất thường xuyên, liên tục cập nhật đưa các thông tin Phật sự kịp thời và rộng khắp trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nét nổi bật trong công tác Phật sự của Ban TTTT T.Ư là sự kiện tổ chức 02 khóa Bồi dưỡng nghiệp vụ thông tin truyền thông toàn quốc tại Quảng Ninh và tại Tp. Hồ Chí Minh
Nhiều sự kiện khủng liên quan đến cơ sở Tự viện, Tăng Ni được đăng tải trên các nhật báo, báo điện tử hoặc phát sóng trên các kênh truyền hình, Ban Thông tin truyền thông đã có những cuộc trao đổi, những phản ánh, đề nghị quý báo, quý đài sử dụng từ đúng mực, tránh việc câu khách, giật gân ảnh hưởng đến uy tín chung của giới tu hành và có những định hướng để các báo thực hiện tác nghiệp.
12. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam:
Trong 35 năm qua, Viện và Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam in ấn, dịch thuật hoàn tất 5 Bộ Nikaya, 4 Bộ A Hàm và một số Kinh thuộc Tiểu Bộ. Tổng cộng 33 tập, trên dưới khoảng 200 ngàn trang, và đang hiệu đính các Bộ Đại Thừa thuộc Hán Tạng. Phát hành hàng trăm đầu sách thuộc các thể loại như Kinh, Luật, Luận, Sử Phật giáo Việt Nam và Sử Phật giáo thế giới.
Các trung tâm của Viện nghiên cứu Phật học: Trung tâm Phật học Hán truyền, trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Thiền Phật giáo Nam tông, Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc truyền, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Phật học, Trung tâm Nghiên cứu Pali học, Ban phiên dịch Anh ngữ đã và đang phiên dịch, ấn hành các bản Kinh, các tác phẩm nghiên cứu Phật học, sưu tập, biên soạn đề cương đề tài nghiên cứu v.v… đáp ứng nhu cầu đọc, tụng, tìm hiểu của Tăng Ni, Phật tử, các nhà học giả trong và ngoài nước.
Tổ chức và tham dự nhiều cuộc Hội thảo khoa học như hội thảo Thiền uyển Tập Anh, Bồ tát Quảng Đức, Sư Thiện Chiếu, Phật giáo thời đại mới cơ hội và thách thức, Thiền sư Trần Thái Tôn, Phật hoàng Trần Nhân Tông – Phật giáo đời Trần, Quốc sư Khuông Việt, Chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội qua các thời kỳ. Ngoài ra Viện Nghiên cứu còn tham dự nhiều hội thảo, hội nghị tại các nước như: Ấn Độ, Thái Lan, Srilanka, Trung Quốc, Đài Loan, Pháp, Đức, Mỹ v.v… với những đóng góp tham luận có giá trị Quốc tế.
Phân viện nghiên cứu Phật học phụ trách Tạp chí Nghiên cứu Phật học xuất bản đều đặn 2 tháng một kỳ, góp phần phát huy tính trong sáng và tích cực của giáo lý Đạo Phật, đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu Phật pháp của Tăng Ni, Phật tử cũng như các nhà Nghiên cứu Phật học.
C. CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Phát huy tinh thần phụng đạo yêu nước, thiết thân cùng xã hội, hiện hữu trong lòng dân tộc, quyết tâm giữ vững tinh thần độc lập dân tộc, phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật, đồng thời, để phát huy vai trò thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện hữu hiệu phương châm hoạt động của Giáo hội "Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, các thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam các cấp, Tăng Ni và Phật tử cả nước đã tích cực hưởng ứng và tham gia các phong trào ích nước lợi dân, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi sinh, môi trường sinh thái, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nếp sống văn hóa trên địa bàn khu dân cư, tham gia tích cực vào phong trào quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Tham gia góp ý dự thảo xây dựng các dự án luật, trong đó đặc biệt là dự án Luật tín ngưỡng tôn giáo; Tham dự Hội nghị quán triệt nội dung Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc; Tham gia phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai; Liên kết với Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia trong việc vận động Tăng Ni, Phật tử thực hiện nếp sống văn hóa giao thông, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa Phật giáo trong các lễ hội tôn giáo tại địa phương.
Với trách nhiệm và bổn phận của công dân đất nước, Trung ương Giáo hội và Giáo hội Phật giáo các cấp đã vận động Tăng Ni, Phật tử tham gia tích cực công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, đồng thời Trung ương Giáo hội và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo các cấp đã giới thiệu Tăng Ni, Phật tử ứng cử tham gia Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp qua các kỳ.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các đại diện thành viên của Giáo hội từ Trung ương đến địa phương đều tham gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
Nhìn chung, Tăng Ni và Phật tử luôn giữ vững lập trường, phát huy truyền thống đoàn kết, hòa hợp, độc lập dân tộc, theo hướng đi lên của thời đại, góp phần xây dựng xã hội Việt Nam văn minh, tiến bộ, giàu mạnh.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã được Đảng Nhà nước trao tặng 2 lần Huân Chương Hồ Chí Minh đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tăng Ni, Phật tử trên toàn quốc.
III. PHẦN THỨ BA: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Phát huy truyền thống đoàn kết hòa hợp của Phật giáo Việt Nam, thành tựu 35 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp tục tăng cường sự đoàn kết trong Tăng Ni, Phật tử, các Sơn môn hệ phái trong Giáo hội nhằm xây dựng Giáo hội không ngừng trưởng thành và phát triển trong lòng dân tộc và hội nhập quốc tế.
2. Tập chung tổ chức thành công Đại hội Phật giáo cấp cơ sở năm 2016 tiến tới Đại hội Phật giáo toàn quốc khóa VIII (2017-2022) làm nền tảng vững chắc phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn mới và thời kỳ tiếp theo.
3. Trong bối cảnh xã hội ngày nay với sự phát triển kinh tế thị trường sự không ngừng gia tăng của nhu cầu của xã hội Giáo hội không ngừng tăng cường công tác quản lý Tăng Ni tự viện trong thời kỳ mới nhằm trau dồi giới đức của Tăng Ni, sự trong sáng của đạo pháp va hình ảnh tốt đẹp của Giáo hội.
4. Đổi mới kiện toàn và tái cấu trúc hệ thống giáo dục Phật giáo phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt trú trọng tới quy chuẩn thống nhât chương trình giảng dạy ở các trường và các cấp đào tạo Phật giáo trong cả nước. Trú trọng mở các trường tư thục Phật giáo theo tinh thần của Luật tôn giáo sau khi được Quốc hội phê chuẩn. Đem tinh hoa của Giáo dục Phật giáo tham gia vào giáo dục quốc dân.
5. Không ngừng thúc đây sự nghiệp hoằng dương chính pháp đem ánh sáng của Đức Phật vào cộng đồng góp phần xây dựng cộng đồng hòa bình an lạc. Đặc biệt quan tâm hoằng pháp tại vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc miền núi hải đảo, mở rộng công tác hoằng pháp tại hải ngoại chăm lo đời sống tâm linh của người Việt Nam ở nước ngoài, hướng lòng yêu nước của cộng đồng người Việt tại nước ngoài về tổ quốc thân yêu.
6. Đổi mới mô hình tổ chức trong việc quản lý, áp dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4 vào việc tổ chức các hình thức sinh hoạt Hướng dẫn Phật tử, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ góp phần nâng cao đạo đức xã hội.
7. Lấy các hoạt động nghi lễ, văn hóa là kênh truyền bá Phật pháp, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của Dân tộc trong đó có di sản văn hóa Phật giáo thúc đẩy du lịch tâm linh góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
8. Phát huy tính nhân văn của Phật giáo không ngừng kêu gọi Tăng Ni tham gia vào từ thiện xã hội mang tính thiết thực và hiệu quả góp phần tích cực sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, chống biến đổi khí hậu góp phần hoàn thành mục tiêu về bảo hiểm y tế của người dân mà Thủ tướng phát động.
9. Trong thời đại bùng nổ thông tin, thì công tác thông tin truyền thông của Giáo hội phải được các cấp các ngành của Giáo hội đặc biệt chú trọng cập nhật phản ánh theo tinh thần chủ trương của Giáo hội theo phương châm Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội kịp thời ứng phó với các khủng hoảng truyền thông tránh việc làm mất niềm tin của Giáo hội.
10. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, công tác kiểm soát, pháp chế của Giáo hội cần được các cấp giáo hội đặc biệt quan tâm và tích cực hoạt động phối hợp với công tác Tăng sự nhằm đưa các hoạt động Phật sự của Giáo hội ổn định và phát triển.
11. Công tác nghiên cứu Phật học cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện bộ Đại Tạng kinh Việt Nam, biên dịch và biên soạn các bộ Kinh, Luật, luận Phật giáo để làm sâu sắc giáo lý trong sáng của Phật giáo và nền Phật giáo Việt Nam đưa các tư tưởng Giáo lý Phật giáo cho định hướng tu tập trước nhu cầu xã hội./.
Ban Thường trực Hội đồng Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
GHPGVN